TÌM HIỂU CHẾ ĐỊNH THỪA PHÁT LẠI
Cơ sở thực tiển tại Việt Nam.
Chế định Thứa phát lại đã tồn tại ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Sau cách mạng tháng 8/1945, Trên cơ sở sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế định Thừa phát lại tiếp tục duy trì cho đến năm 1950 ở miền Bắc. Ở miền Nam, chế định Thừa phát lại còn tồn tại dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn cho tới năm 1975. Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách hàng theo viểu giá quy định. Hoạt động của Thừa phát lại được tổ chức thành Văn phòng. Sau năm 1950 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam, Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định Thừa phát lại. Việc tống đạt các văn bản, giấy tờ do chính các cơ quant hi hành án và Tòa án thực hiện. Việc tổ chức thi hành các phán quyết về dân sự của Tòa án do hệ thống cơ quant hi hành án dân sự Nhà nước thực hiện.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chế định này trong hoạt động tư pháp và đời sống xã hội.
Trước cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 19/7/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 130 quy định về tổ chức thi hành án, trong đó có Thừa Phát lại. Điều 3 của Sắc lệnh này quy định: Trong các thị xã, khu phố, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các Tòa án, ở những nơi nào đã có Thừa Phát lại riêng thì đương sự có nhờ Thừa Phát Lại riêng thi hành mệnh lệnh…
Ngày nay, theo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp , gốp phần dân chủ hóa đời sống xã hội, chế định Thừa Phát Lại tiếp tục nghiên cứu để thực hiện. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: ”Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình…từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án dân sự;…Nghiên cứu chế định Thừa Phát lại (thừa hành viên), trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban hành Nghị Quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó quy định việc thực hiện thí điểm chế định Thừa Phát lại. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009, về tổ chức và hoạt động của Thừa Phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau thời gian thí điểm, Trên cơ sở kết quả thực hiện thí điểm chế định này tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23/11/2012 Quốc Hội đã thông qua Nghị Quyết số 36/2012/NQ13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương…Về thể chế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ kết quả triển khai thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và đề xuất kiến nghị của Chính phủ tại báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015, tại Kỳ họp Thứ 10 Quốc hội XIII đã thong qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016.
Nghị quyết đã ghi nhận kết quả được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Ngị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội; chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước, kể từ ngày 01/01/2016, và Chính phủ ban hành Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 14/01/2016 của Thủ trướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 về Thừa phát lại.
Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận cũng đã ban hành Kế hoạch số 4103/KH-UBND ngày 07/10/2016 Triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc Hội; Quyết Định số 101/QĐ-TTg ngày 14/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế định Thừa phát lại.
Như vậy, sau gần 60 năm vắng bóng trong nền tư pháp dân chủ nhân dân, chế định Thừa Phát lại được nghiên cứu để thiết lập lại theo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm góp phần làm cho nền hành chính tư pháp theo sát và đáp ứng tốt hơn sự phát triển của kinh tế thị trường, có định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hóa đời sống xã hội.
Qua thời gian thí điểm cho thấy, nhu cầu sử dụng các dịch vụ do Thừa Phát lại cung cấp cho người dân đã hình thành và ngày càng lớn, nhất là trong lĩnh vực lập vi bằng. Đối vời các cơ quan tư pháp, hoạt động tống đạt văn bản của Thừa Phát lại đã gốp phần hổ trợ tích cực cho Tòa án và cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính của mình, giảm tải gánh nặng trong điều kiện khối lượng công việc của ngành ngày càng lớn như hiện nay….
Cơ sở pháp lý.
Hiếp pháp 2013 có ý nghĩa quan trọng quyết định những định hướng lớn về cải cách tư pháp, pháp luật. Quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình được Hiến pháp ghi nhận. Về hoạt động tư pháp, Hiến pháp quy định quyền tư pháp và vị trí, vai trò của Tòa án và nguyên tắc hiến định trong hoạt động Tòa án, đồng thời tiếp tục ghi nhận nguyên tắc hiến định của Tòa án. Đây là những cơ sở pháp lý đảm bảo cho việc tiếp tục triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại, đồng thời, hoạt động Thừa phát lại sẽ gốp phần thực thi Hiến pháp 2013. Thể hiện cụ thể như sau:
+ Thừa phát lại với nhiệm vụ lập vi bằng để ghi nhận các sự kiện hành vi một cách khách quan là một cơ chế hữu hiệu giúp người dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Thừa phát lại với chức năng thực hiện việc tống đạt các văn bản, giấy tờ sẽ giúp cơ quan Tòa án giảm tải công việc mang tính chất hành chính, thủ tục để tập trung thực hiện quyền tư pháp. Trong bối cảnh mà số lượng, tính chất phức tạp các vụ án Tòa án phải giải quyết, xét xử ngày càng tăng thì đây là một yêu cầu cấp thiết.
+ Với công tác xét xử của Tòa án, việc sử dụng các vi bằng do Thừa phát lại lập là một nguồn chứng cứ quan trọng giúp Tòa án giải quyết được các vụ án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật, góp phần thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được hiến định.
+ Thừa phát lại thực hiện chức năng xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành án giúp bản án, quyết định được thi hành trên thực tế; góp phần đống góp tích cực thực hiện nguyên tắc quy định tại điều 106 Hiến pháp 2013.
Việc thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại ở nước ta theo Nghị quyết số 107/2015/QH13 là cần thiết, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tê-xã hội, với cơ chế kinh tế thị trường, cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và phù hợp với xu thế chung của các nước có truyền thống luật thành văn ( Civil Law). Nghị quyết chính thức ra đời một nghề mới trong thị trường dịch vụ pháp lý, tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng.
Trọng Hòa (Còn tiếp)